Tôi lên đường đến với tỉnh Bạc Liêu mang theo “hành trang hiểu biết” duy nhất về vùng đất này là câu chuyện của Công tử Bạc Liêu với độ giàu có, xa hoa nổi tiếng. Do chưa có dịp tìm hiểu về Bạc Liêu, lần đầu tiên đến với Bạc Liêu tôi như một trang giấy trắng và Bạc Liêu đã viết nên bao câu chuyện đẹp đẽ trong tôi - Một Bạc Liêu anh hùng, đổi mới và đậm tình.
Danh xưng “Bạc Liêu”, đọc theo tiếng Trung, giọng Triều Châu là Pô Léo, có nghĩa là xóm nghèo, làm nghề hạ bạc, tức là nghề chài lưới, đánh cá, đi biển. Pô phát âm theo tiếng Hán Việt là “Bạc” và Léo phát âm là “Liêu”.
Năm 1680, Mạc Cửu - một di thần nhà Minh ở Trung Quốc đến vùng Mang Khảm chiêu tập một số lưu dân người Việt, người Hoa cư trú ở Mang Khảm, Phú Quốc, Rạch Giá, Long Xuyên (Cà Mau), Luống Cày (Lũng Kỳ), Hưng Úc (tức Vũng Thơm hay Kompong som), Cần Bột (Campốt) lập ra những thôn xóm đầu tiên trên vùng đất Bạc Liêu. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, sau khi đất nước thống nhất hai miền Nam - Bắc, vào đầu năm 1976, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam hợp nhất hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau thành tỉnh Bạc Liêu-Cà Mau, đến gần giữa năm 1976 tỉnh Bạc Liêu-Cà Mau đổi tên thành tỉnh Minh Hải. Ngày 01/01/1997, tỉnh Bạc Liêu được tái lập.
|
 |
Bạc Liêu phát triển, đổi mới |
Câu chuyện Bạc Liêu anh hùng…
Bạc Liêu nằm ở Tây Nam Bộ, thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Phía Bắc giáp tỉnh Hậu Giang và Kiên Giang; phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Sóc Trăng; phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Cà Mau; phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông. Trong cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, chiến trường Bạc Liêu ở xa Trung ương, bị địch bao vây, chia cắt, đánh phá quyết liệt. Nhưng với tinh thần tự lực, tự cường, từ khởi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp đến hết cuộc kháng chiến chống Mỹ, quân và dân Bạc Liêu đã tích cực xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng hậu phương chiến lược tại chỗ, không ngừng tạo ra sức mạnh tổng hợp của các lực lượng kháng chiến để đánh thắng kẻ thù.
Ngay từ thời kỳ tiền khởi nghĩa, Bạc Liêu đã dựa vào dân để tồn tại và chống giặc, lập xưởng sản xuất vũ khí trong rừng U Minh chuẩn bị khởi nghĩa Nam Kỳ. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bạc Liêu xây dựng căn cứ toàn diện về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội, phát động phong trào toàn dân xây dựng bảo vệ vùng căn cứ, phong trào phòng gian bảo mật, phong trào hậu phương quân đội, phong trào đóng góp sức người sức của cho kháng chiến.Thời kỳ chống Mỹ, nhiệm vụ xây dựng hậu phương căn cứ cho kháng chiến được quân và dân Bạc Liêu hoàn thành xuất sắc. Theo bước phát triển của chiến tranh và của các lực lượng vũ trang, hệ thống hậu phương căn cứ trong tỉnh Bạc Liêu từng bước mở rộng và hoàn chỉnh, bao gồm căn cứ của tỉnh, căn cứ huyện, căn cứ của xã, ấp (còn lại là “căn cứ lõm”). Từ hình thái căn cứ độc đáo này các cơ quan lãnh đạo kháng chiến được bảo vệ an toàn, lực lượng vũ trang bám vững mọi địa bàn, tiếp cận và bất ngờ đánh địch ở mọi nơi. Hệ thống căn cứ của tỉnh còn nối liên hoàn, tạo hành lang giao thông vận chuyển thông suốt từ căn cứ U Minh của Khu ủy, Quân khu ủy đến các tỉnh, huyện, xã tiếp giáp tạo thuận lợi cho bộ đội chủ lực cơ động, tiêu diệt quân địch. Hình thái căn cứ này tồn tại cho đến ngày toàn thắng 30/4/1975.
Quân địch tìm mọi cách đánh phá hậu phương căn cứ như: càn quét quy mô, giết sạch, cướp sạch, đốt sạch, rải chất độc hủy diệt địa hình, chiến tranh tâm lý, ném bom B52 rải thảm… Tuy nhiên, Bạc Liêu anh hùng, kiên cường xác định xây dựng, bảo vệ vững chắc căn cứ hậu phương là nhiệm vụ thường xuyên quan trọng. Thực hiện khẩu hiệu “một tấc không đi, một ly không rời”, Bạc Liêu tham gia tổ chức đánh địch càn quét, hướng dẫn Nhân dân làm hầm hố tránh phi pháo, cất “nhà hai nóc” trong địa hình và ngoài đồng trống để bảo vệ tính mạng, tài sản và duy trì sản xuất, các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật trong vùng giải phóng, phát động xây dựng xã ấp chiến đấu, trồng cây cải tạo địa hình, đào đắp kênh để bảo vệ rừng...
Trong quá trình tiến hành kháng chiến, quân và dân Bạc Liêu đã sáng tạo ra nhiều hình thức, biện pháp, cách đánh có hiệu quả cao, thích ứng với điều kiện khách quan, tình hình so sánh lực lượng, thích ứng với những đặc điểm cụ thể của chiến trường, góp phần tiêu hao, tiêu diệt rộng rãi quân địch và giành quyền làm chủ. Quân và dân Bạc Liêu anh hùng quán triệt tư tưởng kiên quyết tiến công, phát huy lối đánh sở trường truyền thống, linh hoạt, mưu trí, nhằm vào chỗ yếu, sơ hở của địch, tạo thời cơ và nắm thời cơ đánh những đòn quyết định giành thắng lợi. Chiến trường Bạc Liêu chính là nơi diễn ra những trận đánh, những chiến dịch có ý nghĩa tác động sâu sắc đến tiến trình chiến tranh ở Quân khu và miền Tây Nam Bộ cho đến ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng.
Câu chuyện Bạc Liêu đổi mới, vươn mình cùng dân tộc
Năm 1997, tỉnh Bạc Liêu được tái lập. Bạc Liêu khi ấy là một tỉnh nghèo, có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào cây lúa với quy mô nhỏ, manh mún, năng suất thấp. Cơ sở hạ tầng lạc hậu, yếu kém, hệ thống giao thông chưa được đầu tư đồng bộ. Các công trình phúc lợi xã hội như: điện, nước, trường học, bệnh viện… đều thiếu và yếu. Khó khăn chồng khó khăn, Bạc Liêu còn là vùng chịu ảnh hưởng mạnh của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn, hạn hán... Tuy đối mặt với muôn vàn khó khăn nhưng với tinh thần vượt khó và sự nỗ lực, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và Nhân dân, tỉnh Bạc Liêu đã từng bước khắc phục những trở ngại, tạo đà phát triển mạnh mẽ và bền vững trong hơn 28 năm qua, quyết tâm dựng xây Bạc Liêu trở thành tỉnh phát triển khá trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước.
Bạc Liêu vốn là tỉnh thuần nông, vốn độc canh cây lúa nên giá trị hàng hóa mang lại không cao. Không cam chịu, với đường lối lãnh đạo đúng đắn, người dân Bạc Liêu dựa vào tiềm năng, lợi thế vùng ven biển rộng lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản mang lại giá trị kinh tế cao, trong đó có nuôi tôm thâm canh, siêu canh đem lại sản lượng lớn, hiệu quả kinh tế cao. Năm 2017, Chính phủ quyết định thành lập Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu, quy mô hơn 418 ha tại xã Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu. Đến thời điểm hiện tại, quy mô, diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh Bạc Liêu đạt hơn 132.000 ha. Bạc Liêu từng bước phát triển nuôi trồng tôm giá trị cao, được kỳ vọng sớm thành “thủ phủ” ngành tôm của cả nước trong tương lai gần, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, nổi bật của địa phương và cả nước. Đã qua đi rồi, trên những “cánh đồng chó ngáp” - theo cách gọi ví von của người dân nơi đây - chỉ có thể sản xuất 1 vụ lúa/năm, từ nhiều năm nay, người dân Bạc Liêu đã xây dựng, phát triển sản xuất đồng bộ với những mô hình tôm - lúa cho lợi nhuận cao. Con tôm không chỉ giúp nông dân nơi đây thoát nghèo, mà còn vươn lên làm giàu, trở thành tỷ phú trên chính mảnh đất quê hương.
Với lợi thế nổi bật có bờ biển dài gần 56 km, nguồn tài nguyên gió và mặt trời phong phú, Bạc Liêu đã nhanh chóng nắm bắt, vận dụng linh hoạt, đẩy mạnh phát triển điện gió. Được khởi công xây dựng từ năm 2010 với kinh phí đầu tư khủng lên đến 1.000 tỷ đồng, cánh đồng điện gió Bạc Liêu là một trong những dự án điện gió quy mô lớn đầu tiên tại Việt Nam đã trở thành biểu tượng của sự chuyển mình trong phát triển năng lượng tái tạo tại địa phương này. Với 62 cột tháp cao 80m và cánh quạt gió dài 42m đặt ngang mực nước biển, cánh đồng điện gió này đã tạo ra và cung cấp năng lượng sạch cho khu vực miền Tây rộng lớn. Xác định năng lượng sạch, năng lượng tái tạo: điện gió, điện mặt trời và điện khí là một trong 5 trụ cột phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, tính đến nay, Bạc Liêu có hơn 1.600 hệ thống điện mặt trời mái nhà, 8 dự án nhà máy điện gió đang vận hành thương mại; 2 dự án điện gió trong quá trình xây dựng; dự án điện khí LNG với tổng vốn đầu tư gần 4 tỉ USD…
Kết thúc năm 2024, tổng GRDP theo giá hiện hành của tỉnh Bạc Liêu đạt gần 66.000 tỷ đồng. Tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt 6,62%, đứng thứ 10/13 tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đứng thứ 46/63 cả nước. Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 70 triệu đồng/người/năm. Lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục được tỉnh Bạc Liêu quan tâm và có bước phát triển mới. Công tác chăm lo cho gia đình chính sách, người có công, hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em, người lao động có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và các đối tượng bảo trợ xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời; tỷ lệ hộ nghèo giảm dưới 1%. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Đời sống của người dân Bạc Liêu không ngừng được nâng cao cho thấy sự quyết tâm dựng xây quê hương của Đảng bộ và Nhân dân nơi đây.
Phát huy truyền thống văn hóa đặc sắc, tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Bạc Liêu chung sức, chung lòng xây dựng tỉnh phát triển xanh, nhanh và bền vững; từng bước khẳng định vị thế Bạc Liêu trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
|
 |
Du khách tham quan, tìm hiểu khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu |
… và Bạc Liêu đậm tình!
Bạc Liêu có nhiều dân tộc anh em khác nhau cùng sinh sống hòa thuận, ngoài người dân tộc Kinh là chủ yếu, nơi đây còn có khoảng 4,7% người dân tộc Khmer, 3% người dân tộc Hoa. Ngược về quá khứ, Bạc Liêu là vùng đất hoang vu, thú dữ tràn lan… điều kiện sống khắc nghiệt đã hình thành nên tính cách cho người dân nơi đây. Người dân không phân biệt dân tộc đều đùm bọc, đoàn kết lại để có thể bám trụ mà sinh cơ lập nghiệp. Do đó, tuy mỗi dân tộc đều vẫn giữ bản sắc riêng có nhưng 3 dân tộc anh em Kinh - Khmer - Hoa chung sống hòa thuận trên mảnh đất Bạc Liêu, cuộc sống văn hóa giao thoa, hòa quyện và đoàn kết một lòng. Những phong tục tập quán, lối sinh hoạt, các nghi thức cúng kiến, hệ thống đình, chùa, miếu mạo… của cả 3 dân tộc hòa quyện với nhau thành một “khối văn hóa” đặc sắc đậm tình Bạc Liêu.
Nghi thức cúng đình, tảo mộ trong Tiết thanh minh… của người Hoa lan tỏa trong đời sống của người Kinh và Khmer. Còn trong các dịp lễ, tết của người Khmer, người Kinh và người Hoa cũng rộn ràng chung vui bên dĩa bánh gừng, bánh ớt ngọt ngào và đến chùa Khmer cùng trẩy hội. Các món ăn truyền thống của người Kinh như bánh tét cũng tồn tại trong những dịp tết của người Hoa và người Khmer.
Những nét sinh hoạt truyền thống của cả 3 dân tộc không còn khoảng cách, giao thoa chặt chẽ về văn hóa cả trong nếp nghĩ, nếp sống. Sự giao thoa ấy diễn ra một cách tự nhiên, không gượng gạo, gò ép, trở thành nét văn hóa đa phong cách nổi bật trong cộng đồng dân cư Bạc Liêu. Cũng chính sự giao thoa ấy đã tạo nên tính cách cho người dân Bạc Liêu với phong cách thật đặc biệt. Người dân Bạc Liêu có phong cách sống phóng khoáng, hiền lành, hiếu khách rất đặc trưng của người dân Nam Bộ. Phong cách ứng xử của người dân Bạc Liêu mang tính cách nông dân dân dã, chất phác, bộc trực, dám phản kháng mạnh mẽ trước những bất công của xã hội. Bên cạnh đó, người dân Bạc Liêu lại hết sức khoan dung, nhân hậu, hào hiệp và đầy nghĩa tình; tạo ra nét tính cách đặc trưng làm nên một Bạc Liêu gần gũi, dễ mến với người đối diện.
Đến với Bạc Liêu trong khoảng thời gian ngắn nhưng tôi thật sự cảm nhận rõ nét tính cách của người dân nơi đây, họ hiếu khách, thật dạ, không cầu kỳ trong ăn nói cũng như sinh hoạt, đem đến cảm giác dễ chịu, dễ thương, muốn gần mãi. Cô bạn bằng tuổi dù mới gặp, gọi tôi bằng “ní” với giọng nói nhẹ nhàng, ngọt như “mía lùi”, nghe dễ cưng, trong trẻo như một lời tâm sự.
Tôi rời Bạc Liêu trong tiếng nhạc lắng sâu của bài vọng cổ Dạ cổ hoài lang của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu… Và với tôi, Bạc Liêu đậm tình mãi!