Tháng 3 năm 2023, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc công bố quyết định công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt - Di tích kiến trúc nghệ thuật Cụm đình Hương Canh. Cùng với Tháp Bình Sơn, Khu danh thắng Tây Thiên, Đình Thổ Tang, Cụm đình Hương Canh là 4 Di tích Quốc gia đặc biệt của tỉnh Vĩnh Phúc.
Cụm đình Hương Canh: Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh thuộc thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Cụm đình được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII, XVIII. Các đình tọa lạc tại vị trí cách nhau từ 100-300m, tạo thành quần thể di tích hoành tráng, kề sát Quốc lộ 2A, thuận lợi cho tham quan du lịch và hành hương.
Hương Canh vốn gốc là tên một xã của huyện An Lãng, trấn Sơn Tây đời Hậu Lê, rồi được lấy làm tên tổng thời Nguyễn và tên của thị trấn ngày nay, nhưng theo cách hiểu của người địa phương, Hương Canh cũng là tên chung của ba làng Hương Canh, Ngọc Canh, Tiên Canh, còn gọi là Tam Canh. Theo nghĩa chữ Hán, Hương là mùi thơm, Canh (hay Cánh) là lúa tám thơm (lúa gié cánh); Hương Canh nghĩa là Mùi thơm hương lúa tám thơm (lúa gié cánh).
Cả ba đình Hương Canh, Ngọc Canh và Tiên Canh cùng thờ chung 6 vị thành hoàng, gồm: Ngô Xương Ngập (con cả của Ngô Quyền, vua nhà Ngô, trị vì từ năm 951- 954) được phong là Thiên Sách Hoàng đế (thờ tại Chính vị); vua Ngô Xương Văn (con thứ của Ngô Quyền, vua nhà Ngô, trị vì từ năm 950-965), được phong là Quốc Vương Thiên tử (thờ tại Tả vị); Đổ Cảnh Thạc (912- 967, tướng của Ngô Quyền, sau này là một trong thủ lĩnh thời 12 sứ quân), được phong là Đông Nhạc Đại thần (thờ tại Hữu vị); cùng 3 nhân vật khác được phối thờ là Linh Quang Thái Hậu (phu nhân của Thiên Sách Hoàng đế); Khả/A Lã Nương Nương (phu nhân của Quốc Vương Thiên tử) và Thị Tùng Phu Nhân (phu nhân của Đông Nhạc Đại thần).
Theo tài liệu để lại: Đình Hương Canh được xây dựng và khoảng đầu thế kỷ XVIII có kiến trúc hình chữ Vương, đình gồm ba toàn Tiền Tế, Trung Tế (Đại đình) và Hậu cung. Từ năm 2007 đến 2010, đình được tu bổ theo chương trình mục tiêu Quốc gia chống xuống cấp di tích, với nguyên tắc bảo tồn tối đa các giá trị nguyên gốc kiến trúc di tích và dáng vẻ của di tích, sử dụng vật liệu gỗ truyền thống, tôn nền, tăng khả năng chống chịu mối mọt và ảnh hưởng của khí hậu đối với các tác phẩm điêu khắc trang trí có niên đại cuối thời Lê, đầu Nguyễn của đình.
Đình Hương Canh có rất nhiều bức chạm khắc (chạm lộng) lớn nhỏ được ghép thành các mảng lớn trong đình, tương tự như trong các ngôi đình nổi tiếng vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Các bức chạm tại đây được thể hiện trên các thành phần kiến trúc gỗ như đầu dư, xà, bẩy, rường và trên hệ thống cửa võng. Nghệ thuật chạm khắc gỗ ở đình Hương Canh được cho là kết hợp nét tự do của điêu khắc đời Hậu Lê với tính ước lệ và quy chuẩn ở đời Nguyễn. Các bức chạm có thể phân thành từng lớp với nội dung khác nhau, hoặc đan xen nhau, lấy hình tượng rồng làm chủ đạo…Nội dung của các bức chạm miêu tả cảnh về cõi trần và cõi tiên, về tự nhiên và về cảnh sinh hoạt đời thường. Về cảnh cõi trần và cõi tiên trong các tích truyện, thần thoại: Tại đây có các chạm khắc phản ảnh con người và tự nhiên là một, cõi trần và cõi tiên là một, ví như “Tiên cưỡi rồng”. Tại đình Hương Canh cũng có vô số các chạm khắc từ các loài linh vật như: long, ly, quy, phụng, đến các loài vật gần gũi với người như chim… Rồng là linh vật được chạm khắc nhiều với hình tượng như: “Đầu rồng”, “Ổ rồng”... hay các cảnh sinh hoạt đời thường, lễ hội: “Bơi chải”, “Đi săn”, “Đánh vật”, “Múa rồng”… Đây là những hình ảnh thu nhỏ của ngày hội làng, phản ánh phần nào sinh hoạt của xã hội thời đó.
Đình Ngọc Canh cũng được chạm khắc đẹp đẽ, thể hiện trên các thành phần kiến trúc như đầu dư, xà, bẩy, rường và các bức cửa võng tại Tiền đường và Trung đường. Các bức chạm phân thành từng lớp với nội dung khác nhau, hoặc đan xen nhau, lấy hình tượng rồng làm chủ đạo… Nội dung của các bức chạm miêu tả cảnh về cõi trần và cõi tiên, về tự nhiên và về cảnh sinh hoạt đời thường. Cảnh cõi trần và cõi tiên trong các tích truyện, thần thoại như “Tiên cưỡi rồng”, “Người cưỡi rồng”… Về tự nhiên có vô số các chạm khắc từ các loài linh vật như: Long, ly, quy, phụng đến các loài vật gần gũi với người như trâu, chim, cá… Rồng là linh vật được chạm khắc nhiều với hình tượng như: “Đầu rồng”, “Ổ rồng”, “Tứ linh quần tụ”… đặc biệt là hình tượng rồng trang trí ở bộ cửa võng với hàng trăm con uy nghiêm và hàng ngàn đao mác. Cảnh sinh hoạt đời thường cũng có nhiều bức chạm khắc như: “Đánh cờ”, “Dựng cột buồm”, “Hát cửa nhà quan”, “Đi săn”... Các bức chạm có bố cục chặt chẽ, hài hoà, đường nét phóng khoáng tự do, khắc hoạ được tình cảm, cá tính của từng nhân vật. Người ta cũng nhận thấy sự khác biệt về nội dung chạm khắc của đình Ngọc Canh thiên về miêu tả cảnh cuộc sống thường nhật, còn đình Hương Canh lại thiên về miêu tả cảnh lễ hội.
Nghệ thuật chạm khắc tại đình Tiên Canh cũng tương tự như hai ngôi đình thuộc Cụm đình Tam Canh. Các bức chạm tại đây được chạm khắc đẹp đẽ, thể hiện trên các thành phần kiến trúc như đầu dư, xà, bẩy, rường… và các bức cửa võng tại Tiền đường và Trung đường. Các bức chạm cũng phân thành từng lớp với nội dung khác nhau, hoặc đan xen nhau, lấy hình tượng rồng làm chủ đạo…Nội dung của các bức chạm miêu tả cảnh về cõi trần và cõi tiên, về tự nhiên và về cảnh sinh hoạt đời thường. Rồng là linh vật được chạm khắc nhiều với hình tượng như: “Đầu rồng”, “Ổ rồng”, “Long cuốn thủy”, “Tứ linh quần tụ”, “Rồng cuốn cột”, “Cá hóa rồng”... Hình tượng rồng nổi bật tại các bức cửa võng. Cửa võng của đình trang trí tại 3 ô cửa với hai lần cửa trong và ngoài. Ba ô cửa võng ngoài được trang trí bằng 7 lớp cá hóa rồng. Ba ô cửa võng trong được trang trí bằng 8 con rồng hoàn chỉnh dài suốt theo cửa. Trong toàn bộ 6 ô cửa võng là hơn một trăm con rồng. Các con rồng đều nằm cùng một tư thế song song với nhau, nền là những cây đao mác trông rất bề thế…
Nghệ thuật điêu khắc gỗ cổ tại Cụm đình Hương Canh vô cùng độc đáo, có giá trị lớn, trở thành ba trong số các ngôi đình tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc đình làng Bắc bộ. Lễ tế đình được tổ chức vào ngày 14, 15 tháng Hai âm lịch nhằm lưu giữ, bảo tồn những giá trị tinh hoa của vùng đất Vĩnh Phúc và cả dân tộc.